Chuyển đến nội dung chính

Bài thơ - Âm vang lời cổ tích

ÂM VANG LỜI CỔ TÍCH

Cổ tích dân tộc sáng ngời
Vẻ vang nguồn cội nghìn đời cha ông
Trời, biển, đất, nước, núi, sông
Cánh cò, đồng lúa mênh mông, thanh bình
Yêu sao thôn xóm quê mình
Cây đa, bến nước, mái đình thân quen
Lời khuyên dạy chẳng dám quên
Chuyện xưa, tích cũ lưu truyền đời sau
Đậm đà sự tích trầu cau
Anh em, chồng vợ biết bao ân tình
“Chuyện xưa Dương Lễ, Lưu Bình
Châu Long dệt gấm vẹn tình thâm giao”[1]
Trước là nhân nghĩa đề cao
Sau là ghi tạc công lao đồng bào
Cây nêu ngày Tết năm nào
Xua tan lũ quỷ lấn vào ruộng nương
Nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương
Phụng thờ, cung kính, khói hương đủ đầy
Mai An Tiêm trắng bàn tay
Tìm ra dưa hấu tận ngoài đảo xa
Anh hùng Thánh Gióng tài ba
Giặc Ân tan tác, nước nhà bình yên
Dân ta nòi giống Rồng, Tiên
Khai hoang mở cõi ba miền non sông
Nêu gương nghĩa vợ, tình chồng
Khắc ghi bốn chữ tâm đồng, thủy chung
Sắt son phải thẹn với lòng
Hóa thành thân muỗi, má hồng phôi phai
“Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”[2]
Dã Tràng uất hận vương mang
Xe cát lấp biển chẳng màng nhọc công
Gái khôn giết chó khuyên chồng
Phu thê đồng thuận biển sông lấp đầy
Nuôi con chẳng quản tháng ngày
Con nuôi cha mẹ kể ngày kể đêm
Người hiền thì được gặp hiền
Kẻ ác ắt gặp muộn phiền, tai ba
“Đẻo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì” [3]
“Của trời trời lại lấy đi
Giương đôi mắt ếch làm chi được trời” [4]
Vong ân phụ nghĩa người đời
Của Thiên trả Địa, đất trời chứng cho
Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho
Tham lam phải chịu lắm trò mỉa mai
Nhớ rằng trọng nghĩa khinh tài
Trau dồi nhân đức đong đầy mai sau
Con người chữ hiếu đề cao
Thờ cha kính mẹ mai sau nên người
Biết bao bài học cho đời
Ngẫm suy thời cuộc từ lời cha ông
Vọng vang như tiếng tơ lòng
Sắc màu dân tộc con Rồng cháu Tiên.

29 – 06 – 2016
Nhựt Hoàng

Chú thích

[1] Trích trong bài Tân cổ Dương Lễ - Lưu Bình.
[2], [4] Tên câu chuyện trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi.
[3] Trích trong “Chuyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dạ.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bài thơ - Hoài niệm kẻ chinh nhân

HOÀI NIỆM KẺ CHINH NHÂN Quân kỳ phất phới điểm binh Lệnh truyền lưỡng quốc xuất chinh Tây Thành Chàng nơi khói lửa chiến tranh Bụi hồng nhuộm máu vấy tanh chiến bào Thanh lâu nàng bạc mái đầu Tam Đồ vang tiếng tiêu sầu ai bi Ngày đưa tiễn, lệ hoen mi Dặm trường thiên lý kinh kỳ xa xăm Tương phùng mong mỏi tháng năm Ngờ đâu trần thế âm thầm ly tan Dưới tro nàng dạo phím đàn Lửa thiêng vương vấn chẳng tàn bụi than Mộ phần đao kiếm vắt ngang Thây phơi đắp chiếu vô vàn thành Tây Vũ cơ xòe quạt trong tay Gió nơi huyệt mộ tung bay tiền vàng Chu sa họa lại dung nhan Quả là cốt cách di nhân phi thường Sa cơ thọ tiễn chiến trường Thi hài đẫm máu đã ngừng trào tuôn Rượu nồng pha vị tuyết sương Tế thần rưới chén quỳnh tương đẫm sàn Nữ nhi mắt lệ tuôn tràn Quát câu "phản trấn" bi than đất trời Âm dương rẽ lối muôn đời Vọng vang tiếng gió tựa lời điêu linh Sa trường khói lửa đao binh Gạt đi nước mắt phỉ tình trăm năm Khúc Cai Hạ...

Tổ Đình Ấn Quang

Tổ Đình Ấn Quang Tại vùng tráng lệ Sài Gòn Bốn bên tấp nập bà con thị thành Cửa nhà phố xá bao quanh Uy nghiêm sừng sững nổi danh một đời Ấn Quang tự đẹp rạng ngời Thuộc dòng Lâm Tế thuộc về Thiền Tông Thiền môn đón ánh dương hồng Cành Sa La nở đẹp lòng chư Tăng Nhang trầm nghi ngút hương lân Có Quan Âm các có hàng trúc xanh Hoa thơm cành lá bao quanh Phật Đà thiền tọa ngồi khoanh chân trần Là nơi chẳng chút bụi trần Là nơi thanh tịnh muôn phần an nhiên Từ bi mở rộng cửa thiền Đón chào sanh chúng bén duyên nâu sòng Minh Thiện

Vườn trái cây - nhà Nhựt Hoàng